Kiến tạo môi trường pháp lý nhằm tạo điều kiện nâng cao vị thế, vai trò, bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa (trong đó chủ thể chính là luật sư) trong quá trình tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự đã được đề cập trong bộ luật quan trọng vừa được Quốc hội thông qua.
Hoàn thiện định chế bào chữa
Liên quan đến chế định bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự trong quá trình sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), Liên đoàn Luật sư Việt Nam (LĐLSVN) đã triển khai nhiều hoạt động cả chiều rộng lẫn chiều sâu, thông qua việc tổ chức khảo sát và đánh giá thực trạng hành nghề luật sư trong TTHS trong phạm vi cả nước, tổ chức nhiều hội thảo quốc tế và trong nước chuyên sâu với sự tham gia đóng góp ý kiến của các chuyên gia hàng đầu của quốc tế và trong nước, tổng hợp thành các báo cáo, kiến nghị có chiều sâu về hàm lượng tư duy pháp lý.
LĐLSVN cũng được Bộ Công an tham khảo ý kiến trong quá trình xây dựng và ban hành Thông tư số 70 về bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đã ký kết Quy chế với Viện KSND tối cao làm cơ sở cho mối quan hệ phối hợp trong công tác khoa học pháp lý, xây dựng pháp luật, giải quyết các vướng mắc trong hành nghề của luật sư. Với sự hỗ trợ của LHQ và một số tổ chức nước ngoài, LĐLSVN đã tổ chức nhiều đoàn công tác khảo sát tại Hoa Kỳ, Ca-na-đa, CHLB Đức, Nhật Bản, Trung Quốc nhằm tiếp thu những kinh nghiệm hành nghề luật sư trong TTHS của các mô hình TTHS khác nhau trên thế giới. Công tác truyền thông nhằm thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội đã được chú trọng phối hợp thông qua các cuộc tranh luận công khai về “quyền im lặng”, chuyên đề về bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS, chương trình 60 phút mở trên Đài truyền hình Việt Nam (VTV1, VTV6), đối thoại trên Truyền hình Quốc hội...
Thường trực Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương làm việc với Liên đoàn luật sư Việt Nam ngày 5/8/2013 (Ảnh: Hoài Phan)
Nhiều nội dung liên quan vấn đề bào chữa được phản ánh trên báo chí, nhất là việc đề nghị hủy bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận hay đăng ký người bào chữa. Đại diện LĐLSVN đã có cơ hội tham gia và trình bày quan điểm về các vấn đề còn ý kiến khác nhau trong các Hội thảo, Hội nghị do Ủy ban TVQH, Ủy ban Tư pháp Quốc hội tổ chức.
Có thể khẳng định BLTTHS vừa được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 9 vào ngày 2-11-2015 vừa qua đã ghi nhận nổi bật chế định bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự trong BLTTHS mới năm 2015. Vấn đề không chỉ dừng lại ở việc BLTTHS 2015 đã xây dựng một chương V mới về bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, mà đã có bước chuyển căn bản trong nhận thức thể hiện trong quy định của BLTTHS quán triệt toàn diện và sâu sắc tinh thần Hiến pháp năm 2013.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
BLTTHS 2015 đã quán triệt tinh thần Hiến pháp năm 2013, ghi nhận các nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, suy đoán vô tội và tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, có thể nhận thấy một trong những vấn đề trọng tâm trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2003 là phải làm rõ được mô hình và cơ chế tố tụng hướng đến việc bảo đảm yêu cầu cấp bách, kịp thời, minh bạch, khách quan của công cuộc phòng, chống tội phạm, đồng thời tôn trọng và bảo đảm quyền con người, dân chủ hóa hoạt động TTHS.
Liên quan đến chế định bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, BLTTHS 2015 đã thể chế hóa những quan điểm và nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp năm 2013, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Cụ thể:
Một là, một trong những nhiệm vụ của BLTTHS là góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Khoản 4 điều 31 Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Lần đầu tiên quyền bào chữa được quy định trong chương II về quyền con người của Hiến pháp 2013. BLTTHS 2015 đã cụ thể hóa nguyên tắc Hiến định nêu trên tại điều 16 về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Nguyên tắc này thể hiện sự tiếp nối tinh thần của Thông tư số 2225-HCTP ngày 24-10-1956 của Bộ Tư pháp nhằm kiểm điểm công tác tư pháp theo chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó khẳng định “nếu người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không được sử dụng đầy đủ quyền bào chữa thì không gọi là có công lý”. Việc ghi nhận và bảo đảm nguyên tắc này sẽ góp phần nâng cao vị thế và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư trong đời sống và trong tố tụng; gia tăng phạm vi, quyền hạn, trách nhiệm của luật sư, trên cơ sở quy định các trình tự, thủ tục một cách cụ thể, rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu, bảo đảm tính khả thi, tạo điều kiện cho việc hành nghề được thuận lợi, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của luật sư trong quá trình tham gia TTHS.
Hai là, để phù hợp với khoản 1 điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều 13 BLTTHS 2015 lần đầu tiên quy định nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có tội”.
Nguyên tắc suy đoán vô tội nói trên phù hợp Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của LHQ mà Việt Nam đã gia nhập và được pháp luật TTHS của nhiều nước trên thế giới quy định. Nguyên tắc này có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, cũng như bảo đảm quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.
Ba là, thể chế hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được quy định tại khoản 5 điều 103 Hiến pháp năm 2013, BLTTHS 2015 đã quy định chi tiết nội dung của nguyên tắc quan trọng này tại điều 26: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án...
Hơn nữa, mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Như đề án mô hình TTHS do Ban cán sự Đảng Viện KSND tối cao đã nhấn mạnh, tăng cường tranh tụng trong hoạt động TTHS là tư tưởng mang tính đột phá, xuyên suốt nội dung đổi mới và hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam, được xác định là một trong những vấn đề quan trọng nhất của cải cách tư pháp, được thể hiện rõ nét trong các Nghị quyết 08 và 49/NQ-TW của Bộ Chính trị, xem đây là giải pháp quan trọng, tạo những bước cải cách có tính đột phá trong hoạt động tư pháp hình sự.
Chính việc quy định nguyên tắc này trong BLTTHS đã tạo cơ hội mở rộng và tăng cường hơn nữa môi trường dân chủ, tính công khai, công bằng của quá trình giải quyết vụ án hình sự; thiết lập các cơ chế để bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người, bảo đảm quyền dân chủ cho bị can, bị cáo và người đại diện của họ, mở ra các khả năng và điều kiện tốt nhất để người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, triệt để, vô tư; bảo đảm việc giải quyết vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
|
Luật sư PHAN TRUNG HOÀI - Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam
Nguồn tin: Website Liên đoàn luật sư Việt Nam