PGS.TS.LS. PHẠM HỒNG HẢI
Vụ án A và B (hai anh em ruột) bị xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” (theo điểm a Khoản 1 và Khoản 2 Điều 104 BLHS 1999)
Một chiều tháng 9 năm 2010, anh A tới nhà vợ chồng ông bà C và D trả tiền vay nợ. Vì anh A nghe thông tin ông bà C,D nói xấu, làm ảnh hưởng tới uy tín, danh dự của mình nên muốn tìm hiểu và nghe câu trả lời trực tiếp từ chính ông C bà D. Anh A là người kinh doanh vàng bạc nên chữ tín rất quan trọng và quyết định thành công trong công việc. Tuy nhiên, vợ chồng ông C dựa vào điểm mạnh đây là nhà mình, ngoài hai vợ chồng còn cónhiều người khác (con gái, cháu trai và hai người giúp việc, ngoài ra cách nhà ông C khoảng 500m còn có anh trai bà D và một nhóm thợ xây giúp việc cho nhà ông C) nên hai vợ chồng đã có những lời lẽ xúc phạm anh A. Mặc dù đây chỉ là lời khai của anh A trong Bản tường trình gửi Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thị xã T cũng như anh A đã có rất nhiều lời khai có nội dung tương tự nhưng rất tiếc các cơ quan tiến hành tố tụng lại bỏ qua tình tiết này, chỉ chú trọng lời khai của người nhà ông C. Ông C đã giao nộp một đĩa DVD sao từ camera mô tả diễn biến vụ việc cho Cơ quan điều tra nhưng đây chỉ là camera ghi hình chứ không ghi tiếng, không nghe được những lời bà D nói khi anh A tới vì anh A chính là người giới thiệu và dẫn thợ đến nhà ông C lắp camera nên anh A biết rõ tính năng hoạt động của loại camera này. Nguyên nhân dẫn tới hành vi của anh A là do gia đình bà D có những hành vi, lời nói xúc phạm anh A nên anh A trong lúc nóng giận không kiềm chế được đã có hành vi quăng xô nhựa ra giữa nhà. Chi tiết này được thể hiện rất rõ tại dòng cuối cùng của trang 1 và dòng đầu tiên của trang 2 trong Bản cáo trạng của VKSND TX. T. Ngay lúc đó ông C đã đứng lên đóng cửa lại. Nóng giận mà chỉ quăng xô nhựa, ông C không chỉ đứng lên đóng cửa không cho anh A về mà còn chủ động đâm vào mà trái anh A. Mới chỉ có những việc đấy thôi mà ông C đã đóng cửa, đấm vào má anh A, vào bếp lấy súng ngắn…Bất kì ai cũng có thể thấy và phải thấy được rằng anh A ở tình thế yếu hơn, bất lợi hơn ông C. Chính vì vậy, không thể kết luận nguyên nhân dẫn đến hành vi cố ý gây thương tích của anh A là do lỗi chủ quan vì có thể chính ông C bà D đã có những lời lẽ xúc phạm, sỉ nhục nên anh A trong lúc nóng giận đã không kiềm chế, không làm chủ được mình. Như đã trình bày, mặc dù gia đình ông C đã giao nộp một đĩa DVD sao từ camera nhưng vì đĩa DVD này do chính người nhà ông C tự sao chép, không phải các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nên họ có thể cắt xén bớt nội dung mô tả sự việc diễn ra như thế nào. Trong Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thị xã T có mô tả diễn biến vụ việc xảy ra như sau: A vớ được chiếc xô nhựa ở gần ghế salông đang ngồi quăng ra giữa nền nhà. Thấy vậy, anh C ra đóng cửa lại …A chạy ra cửa thì bị anh C đấm một cái vào má trái. A tức quá chạy vào góc nhà bên trái rút điện thoại di động ra điện về cho vợ và B (em trai A)…Anh C liền đi vào trong bếp lấy một khẩu súng ngắn màu xám đen (dạng côn)ở góc bếp đút vào túi quần bên phải đang mặc…Anh C liền thò tay vào túi quần rút khẩu súng ngắn đút sẵn ở trong đó ra giơ lên trời bóp cò. Súng nổ “đoàng” một tiếng.”
Cỏ thể khẳng định anh A ở vào tình thế yếu hơn, bất lợi hơn ông C. Anh A chỉ đến nhà ông C một mình, tay không trong khi ông C có nhiều người nhà hỗ trợ, lại có sự chuẩn bị về vũ khí, cụ thể là khẩu súng ông C dùng đã được nạp đạn sẵn. Nhà ông C có nhiều người không biết sử dụng vũ khí thì không có lý nào ông C lại chủ quan như vậy vì có thể bất kì người nào trong nhà cũng sẽ gặp nguy hiểm với khẩu súng. Vì vậy, có thể khẳng định ông C đã có sự chuẩn bị trước về vũ khí, lại ở vào hoàn cảnh người đông thế mạnh thì người gặp nguy hiểm trong trường hợp này phải là anh A chứ không phải ông C. Ông C trình bày do nghĩ anh A gọi điện cho đầu gấu nên mới vào bếp lấy vũ khí, tuy nhiên cần phải xem xét rõ tình tiết này. Anh A chạy vào góc nhà bên trái rút điện thoại di động ra gọi điện.Anh A đang ở trong nhà ông C, lại đang bị dồn vào tình thế nguy hiểm thì tâm trạng lúc đó rất lo lắng, bất an, không có chuyện gọi điện thoại mà nói nhỏ để không ai nghe thấy được. Bà D cũng khai rằng bà có nghe được anh A gọi điện. Chắc chắn ông C và những người nhà nghe được nội dung cuộc điện thoại của anh A nhưng vẫn cố tình cố tình thực hiện hành vi lấy vũ khí đã chuẩn bị sẵn ra để khống chế, uy hiếp anh A. Trong Bản cáo trạng và Bản kết luận điều tra đều có khẳng định anh A gọi cho vợ và em trai chứ không phải đầu gấu như ông C trình bày. Vì vậy, nguyên nhân ông C đưa ra là anh A gọi điện thoại cho đầu gấu đến là không có căn cứ. Một nguyên nhân quan trọng là chính ông C là người đánh anh A trước, cụ thể là khi anh A chạy ra cửa thì bị ông C đấm một cái vào má trái, trước đó ông C đã đóng cửa không cho anh A chạy thoát ra ngoài (theo Cáo trạng). Tại Biên bản ghi lời khai của CQĐT, cháu ruột ông C cũng có khẳng định việc ông C đã đóng cửa không cho anh A ra ngoài. Việc CQĐT khởi tố anh A về tội “Cố ý gây thương tích” là không hợp lý.
Anh B em trai anh A sau khi nhận được điện thoại của anh A đã đi xe máy đến nhà ông C mà không đi cùng ai, điều này loại trừ suy diễn của ông C là anh A gọi điện báo cho đầu gấu đến. Khi tới nơi, anh B đi thẳng vào nhà mà tay không cầm gì. Nếu anh B đến giúp anh A với mục đích đe doạ ông C thì khi vào nhà ông C, anh B phải cầm sẵn vũ khí mới đúng. Do trực tiếp nhìn thấy anh trai mình bị cô lập trong nhà ông bà C, D, lại bị anh trai bà D khống chế nên chắc chắn tinh thần anh B bị kích động mạnh. Anh B đâm anh trai bà D chỉ với mục đích bảo vệ cho anh A. Có thể thấy rằng người gặp nguy hiểm với mức độ cao hơn là anh em A và B. Như đã đề cập, sự việc xảy ra tại nhà ông C, hai bên đối lập nhau một bên chỉ có hai người là anh em anh A, một bên có tới hơn chục người, hơn nữa ông C lại có súng - vũ khí có tầm sát thương nguy hiểm hơn dao - nên hành vi anh B gây ra do tinh thần bị kích động mạnh.
Tỷ lệ thương tật B gây ra cho anh trai bà D là 3% (theo Biên bản giám định thương tật) không được quy định tại Khoản 2 Điều 104 mà là Khoản 1 Điều 105. Theo Điều 105 tỉ lệ thương tật được quy định từ 31-60%, như vậy có cần thiết phải truy tố anh B ve hành vi này không? Việc cố ý gây thương tích là phải do anh B là người chủ động thực hiện ngay cả khi không nhìn thấy cảnh anh A bị bao vây, chuẩn bị sẵn công cụ, phương tiện phạm tội chứ không chỉ đi người không vào nhà ông C, bị dồn ép nên mới phải chống trả. Việc truy tố anh B về hành vi này là không cần thiết, chỉ nên xử phạt hành chính để giáo dục. Anh B là người có nhân thân tốt, trong quá trình điều tra đã hợp tác với CQĐT, tự nguyện giao nộp con dao đã đâm anh trai bà D.
Ông C có giữ một khẩu súng côn nhưng không giao nộp cho cơ quan có thẩm quyền mà giữ riêng. Ông C đã sử dụng khẩu súng này để đe dọa anh A. Nhiều nhân chứng đã tận mặt chứng kiến ông C giữ khẩu súng trong người. Chính hai vợ chống ông bà C, D cũng thừa nhận về sự tồn tại của khẩu súng và việc ông C đã sử dụng khẩu súng trong vụ xô xát với anh A. CQĐT đã ra Quyết định khởi tố vụ án này và tiến hành điều tra, xác minh. Viện kiểm sát nhân dân TX. T cũng đã ra Quyết định gia hạn điều tra vụ án hình sự lần thứ nhất về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng của ông C trong ba tháng nhưng sau khi hết thời hạn đã ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự về hành vi này với nguyên nhân chưa chứng minh được bị can của vụ án. Việc này chưa được giải quyết thoả đáng. Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự như sau:
Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khâc của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
...
Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về chứng cứ như sau:
1. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
2. Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Kết luận giám định;
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Ông C không có thái độ thành khẩn khai báo, giao nộp khẩu súng mà vứt súng xuống sông Hồng để phi tang. Tuy không thu được khẩu súng vì ông C đã vứt xuống sông Hồng để che giấu tội trạng nhưng Cơ quan điều tra có thể căn cứ vào lời khai của nhân chứng, anh A và chính lời khai của ông C để ra Quyết định khởi tố bị can đối với ông C vì hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì mà Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thị xã T lại chậm trễ trong việc này??? Chúng ta có lẽ ai cũng biết về vụ án giết người trên xe Lexus năm 2009. Cơ quan điều tra không tìm thấy hung khí gây án là con dao nhưng vẫn khởi tố vụ án vì dựa trên những dấu vết trên người nạn nhân như vết cắt, vết xước trên cổ, kết luận giám định… chứ không chỉ dựa trên lời khai của hung thủ. Trong trường hợp này, mặc dù không tìm thấy khẩu súng nhưng trong hồ sơ vụ án, rất nhiều nhân chứng đã khẳng định về sự tồn tại của khẩu súng; bản thân người trực tiếp sử dụng khẩu súng cũng thừa nhận điều này, vậy mà không hiểu tại sao các cơ quan tiến hành tố tụng lại tạm đình chỉ điều tra??? Trong phiên toà sơ thẩm, đại diện VKS, HĐXX không đề cập tới một tình tiết nào liên quan tới hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng của ông C, bỏ qua lời trình bày của bị cáo cũng như phản bác lại quan điểm của luật sư bào chữa chỉ với một lý do không thu được vật chứng (khẩu súng). Có thể thấy rằng các cơ quan tiến hành tố tụng TX. T đã không làm hết trách nhiệm, bỏ qua nhiều nguồn chứng cứ quan trọng đủ để khởi tố một vụ án mới. Vụ án chắc chắn sẽ được xét xử theo trình tự phúc thẩm vì anh A và anh B có Đơn kháng cáo. Hy vọng công lý sẽ được thực thi, quyền và lợi ích hợp pháp của anh A và anh B được bảo vệ./.