Bàn về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự và các giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa

Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tư pháp nói chung và hoạt động tranh tụng tại phiên tòa nói riêng là một trong những yêu cầu cấp thiết, là một trong những nội dung quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các quan điểm của Đảng ta về cải cách tư pháp được đề cập trong các Văn kiện của Đảng ta trong những năm gần đây. Tại Nghị quyết 08/NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: “… Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án (TA) phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định… Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng…”.
Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) hiện hành về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW, đó là đã quy định đầy đủ và cụ thể hơn về trình tự, thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. Đây là những cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa ở nước ta. Tranh tụng là một đề tài rất rộng và phức tạp, trong phạm vi của bài viết này chúng tôi xin trao đổi về một số vấn đề sau:

1. Về phạm vi tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự

Chúng tôi cho rằng trước hết phải xác định phạm vi tranh tụng, tức là xác định quá trình tranh tụng tại phiên tòa được bắt đầu từ thời điểm nào và kết thúc vào khi nào? Bởi vì, có xác định chính xác phạm vi tranh tụng thì mới có thể xác định đầy đủ và chính xác nội dung hoạt động của kiểm sát viên khi tranh tụng tại phiên tòa. Về vấn đề này, hiện nay trong khoa học Tố tụng Hình sự (TTHS) ở nước ta còn có nhận thức khác nhau.

Quan điểm thứ nhất: cho rằng tranh tụng tại phiên tòa chỉ bao gồm phần tranh luận tại phiên tòa khi cho rằng tranh luận theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW có thể hiểu là* nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa, lấy kết quả tranh luận tại phiên tòa để ra bản án, quyết định1.
Quan điểm thứ hai: cho rằng tranh luận tại phiên tòa gắn liền với phiên tòa và không chỉ bao gồm phần tranh luận mà được thực hiện trong suốt quá trình xét xử, cuộc tranh tụng chỉ thực sự kết thúc khi Tòa tuyên án2. Điều đó có nghĩa là quá trình tranh tụng tại tòa được bắt* đầu từ thời điểm khai mạc phiên tòa và bao gồm cả phần thủ tục phiên tòa, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án.
Quan điểm khác lại cho rằng quá trình tranh tụng tại phiên tòa được bắt đầu từ thời điểm kiểm sát viên đọc cáo trạng và kết thúc sau khi tuyên án, tức là bao gồm phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án3
Chúng tôi cho rằng quan điểm thứ nhất đã quá thu hẹp phạm vi tranh tụng. Để có căn cứ tranh luận về vụ án, các chủ thể tham gia tranh tụng phải kiểm tra, xác minh các chứng cứ, tài liệu về vụ án để từ đó lựa chọn được những chứng cứ hợp pháp, có giá trị chứng minh làm căn cứ cho các lập luận của mình khi đề xuất với Hội đồng xét xử về hướng giải quyết các vấn đề về vụ án. Mặt khác, nếu chỉ giới hạn phạm vi tranh* tụng trong phạm vi tranh luận tại phiên tòa thì chưa xác định được quá trình tranh tụng về vụ án giữa các bên sẽ kết thúc ra sao. Vì vậy, theo quan điểm của chúng tôi thì tranh luận chỉ là một thủ tục – một phần độc lập của phiên tòa, trong đó thể hiện tập trung và rõ nét nhất nội dung tranh tụng. Tranh luận có nội hàm hẹp hơn tranh tụng* và chỉ là một bộ phận cấu thành của cả quá trình tranh tụng. BLTTHS (từ Điều 217 đến Điều 221) ghi nhận thủ tục tranh luận với tư cách là một phần của phiên tòa sơ thẩm, được tiến hành ngay sau phần xét hỏi.
Theo quan điểm thứ hai thì phạm vi tranh tụng được mở rộng hơn bao gồm cả* phần thủ tục phiên tòa, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Chúng tôi cho rằng cách hiểu mở rộng phạm vi tranh tụng này có thể chấp nhận được, vì trong thực tiễn xét xử, phần thủ tục phiên tòa chỉ được coi là giai đoạn chuẩn bị của quá trình tranh tụng.
Theo chúng tôi, quan điểm thứ ba cho rằng quá trình tranh tụng tại phiên tòa bao gồm* phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án là chính xác. Bởi vì, chỉ sau khi Hội đồng xét xử nghị án và tuyên án, thì kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên tòa về vụ án mới được xác định và khi đó quá trình tranh tụng tại phiên tòa mới kết thúc.
Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa chính là quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án. Bản chất này chi phối và định hướng mọi hoạt động và hành vi tố tụng của các chủ thể tham gia phiên tòa. Tại đây, thông qua hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng như thẩm phán, kiểm sát viên cùng với sự tham gia của những người tham gia tố tụng khác như luật sư; của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng… Hội đồng xét xử có trách nhiệm xác định sự thật khách quan và ra phán quyết để giải quyết vụ án. Bản chất của tranh tụng được thể hiện ở một số điểm sau đây:
- Tranh tụng tại phiên tòa là một cuộc điều tra công khai do các chủ thể (thẩm phán, kiểm sát viên, người bào chữa,…) cùng tiến hành dưới sự điều khiển của Hội đồng xét xử (chủ tọa phiên tòa). Tại đây các chứng cứ về vụ án được các chủ thể của các bên và Hội đồng xét xử kiểm tra, đánh giá công khai trên cơ sở các quy định pháp luật.
- Hoạt động tranh tụng được tiến hành theo một trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, phức tạp về nội dung, thể hiện sự xung đột về lợi ích, về tâm lý giữa các bên buộc tội và bên gỡ tội và bị hạn chế về mặt không gian và thời gian do pháp luật tố tụng quy định tức là hoạt động này chỉ có thể thực hiện tại phiên tòa và trong thời gian diễn ra phiên tòa.
- Mục đích của tranh tụng là xác định sự thật khách quan về vụ án thông qua hoạt động kiểm tra, đánh giá công khai chứng cứ và giá trị chứng minh của các chứng cứ về vụ án trên cơ sở các quy định pháp luật làm căn cứ cho các nhận định, kết luận hoặc quyết định của Hội đồng xét xử về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án theo quy định tại Điều 63 BLTTHS.
- Kết quả tranh tụng tại phiên tòa giữa các bên về vụ án do Hội đồng xét xử quyết định khi nghị án và được thể hiện bằng phán quyết (bản án hoặc quyết định) nhân danh Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là văn bản pháp lý kết thúc quá trình tranh tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm giữa các bên về vụ án.

2. Về các giai đoạn của qúa trình tranh tụng và nhiệm vụ của kiểm sát viên trong từng giai đoạn.
Từ phân tích trên, căn cứ vào nội dung hoạt động của các chủ thể có thể phân quá trình tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự thành 4 giai đoạn sau:
- Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng;
- Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án;
- Giai đoạn tranh luận giữa các bên;
- Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng.
2.1. Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng:
Đây là giai đoạn mở đầu chuẩn bị cho hoạt động tranh tụng. Nó được bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên tòa của chủ tọa phiên tòa và kết thúc trước khi kiểm sát viên công bố cáo trạng. ở giai đoạn này, chủ tọa phiên tòa tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi tiến hành tranh tụng như: kiểm tra sự có mặt, vắng mặt (lý do vắng mặt) của những người được triệu tập tham gia vào quá trình chứng minh tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xem xét và quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của các bên về hoãn phiên tòa, triệu tập thêm người làm chứng, bổ sung chứng cứ mới…
Theo quy định của Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) và Quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự số 121/2004/QC-VKSTC ngày 16/9/2004 (sau đây gọi là Quy chế)* thì tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, Kiểm sát viên (KSV) tham gia phiên tòa với trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử (HĐXX), của những người tham gia tố tụng. Cụ thể là,* Kiểm sát viên phải kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên toà của Hội đồng xét xử (về việc khai mạc phiên tòa, kiểm tra căn cước của những người tham gia tố tụng được tòa triệu tập ; giải thích cho họ về quyền và nghĩa vụ, giải quyết việc hoãn phiên tòa, giải quyết việc đề nghị thay đổi thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, thư ký tòa án, người giám định, người phiên dịch…), của thư ký Toà án và những người tham gia tố tụng ( về sự có mặt của bị cáo; về sự có mặt của người bào chữa …) từ khi bắt đầu đến khi kết thúc phiên toà, nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, bảo đảm cho việc xét xử được công minh đúng quy định của pháp luật. Kiểm sát viên phải đề nghị hoãn phiên toà trong các trường hợp sau:
- Bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng; người bào chữa bắt buộc vắng mặt; người tham gia tố tụng khác vắng mặt sẽ gây trở ngại cho việc xét xử vụ án;
- Thành phần Hội đồng xét xử không đúng với quy định của BLTTHS;
- Bị cáo yêu cầu hoãn phiên toà, nếu việc giao nhận bản cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử không đúng quy định tại khoản 2 Điều 49 và khoản 1 Điều 182 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Trường hợp Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử thì Kiểm sát viên phải tham gia phiên toà và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Sau phiên toà phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện cấp mình để báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên xem xét quyết định.
2.2. Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án.
Đây là giai đoạn đầu của quá trình tranh tụng. Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm kiểm sát viên công bố cáo trạng và kết thúc trước khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội. Đây là giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án do Hội đồng xét xử tiến hành với sự tham gia của kiểm sát viên, luật sư bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Thông qua việc xét hỏi bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan…; công bố lời khai của những người vắng mặt tại phiện tòa, công bố các kết luận giám định, các tài liệu có liên quan và xem xét vật chứng, các thành viên của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, luật sư tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và giá trị chứng minh của các chứng cứ về các tình tiết của vụ án. Trên cơ sở đó, HĐXX xác định có tội phạm xảy ra hay không, có đúng bị cáo là người thực hiện hành vi phạm tội hay không, động cơ mục đích, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, hậu quả của tội phạm…để ra các quyết định đúng đắn, phù hợp với diễn biến tại phiên tòa.
Theo quy định tại Điều 17 Luật tổ chức VKSND và* Điều 21 Quy chế 121 thì trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn và quyết định khác của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án và trình bày ý kiến bổ sung làm rõ thêm nội dung cáo trạng nếu có. Bản cáo trạng là văn bản pháp lý, là quyết định truy tố của Viện Kiểm sát (VKS), vì vậy khi đọc cáo trạng, Kiểm sát viên (KSV) phải thật nghiêm túc, trình bày rõ ràng mạch lạc.
Một trong* những nhiệm vụ quan trọng của KSV ở giai đoạn này là tham gia xét hỏi. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, trước khi tham gia phiên toà Kiểm sát viên phải dự thảo đề cương xét hỏi và những nội dung cần làm sáng tỏ tại phiên toà để tham gia xét hỏi nhằm xác định sự thật của vụ án và các tình tiết khác có liên quan đến việc định tội và đề xuất hình phạt.Trong đề cương xét hỏi, KSV đặc biệt chú ý các mâu thuẫn và cách xét hỏi để giải quyết các mâu thuẫn, và bác bỏ những lời chối tội không có cơ sở; kiểm sát viên không nhất thiết phải dự kiến nội dung bào chữa và chuẩn bị các câu hỏi để làm sáng tỏ vấn đề mà người bào chữa quan tâm.Tại phiên toà Kiểm sát viên theo dõi, ghi chép đầy đủ nội dung xét hỏi của Hội đồng xét xử, của người bào chữa và ý kiến trả lời của người được xét hỏi để chủ động tham gia xét hỏi làm sáng tỏ hành vi của bị cáo, xác định sự thật khách quan của vụ án. Khi xét hỏi, Kiểm sát viên phải đặt câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, tránh giải thích, kết luận ngay. Khi có người tham gia tố tụng xuất trình tài liệu mới tại phiên toà, Kiểm sát viên cần kiểm tra và xét hỏi về nguồn gốc, nội dung tài liệu đó để có kết luận chính xác. Trường hợp chưa đủ điều kiện kết luận mà tài liệu mới đó có thể làm thay đổi nội dung, tính chất vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà để xác minh.
2.3. Tranh luận giữa các bên
Đây là giai đoạn trung tâm, là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng giữa các bên tại phiên tòa. Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm kiểm sát viên trình bày lời luận tội và kết thúc trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án. Trên cơ sở những quy định của pháp luật, các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa tiến hành đánh giá chính thức công khai giá trị chứng minh của các chứng cứ về vụ án để đưa ra quan điểm, nhận định, kết luận của mình về vụ án; các bên thể hiện rõ quan điểm của mình là chấp nhận hay bác bỏ các chứng cứ, quan điểm hay kết luận của “bên kia” về các vấn đề cụ thể cần giải quyết trong vụ án. Nội dung tranh tụng trọng tâm của các bên được thể hiện trong lời luận tội của kiểm sát viên, lời bào chữa của luật sư (lời tự bào chữa của bị cáo), ý kiến tranh luận của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại, cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoặc của chính bản thân họ và lời đối đáp qua lại giữa các bên. ở giai đoạn này, HĐXX không trực tiếp tham gia vào quá trình tranh luận* giữa các bên mà nhiệm vụ chủ yếu của HĐXX, cụ thể là của thẩm phán - chủ toạ phiên tòa là điều khiển quá trình tranh tụng để hướng sự tranh luận của các bên* tập trung vào việc làm sáng tỏ quan điểm còn mâu thuẫn với nhau và ghi nhận quan điểm, ý kiến của các bên tranh tụng về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án.
Điều 217 BLTTHS, Điều 17 Luật tổ chức VKSND quy định: sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, KSV trình bày lời luận tội. Với tư cách là người đại diện cho VKS thực hành quyền công tố nhà nước, KSV thể hiện quan điểm của mình về việc đánh giá hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, hậu quả của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo... để đề xuất mức hình phạt cần thiết áp dụng với bị cáo. Để luận tội đạt hiệu quả, trước khi tham gia phiên toà Kiểm sát viên phải viết bản dự thảo luận tội theo mẫu hướng dẫn của Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao. Đối với vụ án trọng điểm, phức tạp hoặc xét xử lưu động, bản dự thảo luận tội của Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo Viện cho ý kiến. Tại phiên toà Kiểm sát viên phải ghi chép những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác để bổ sung và sửa chữa bản dự thảo luận tội. Sau khi kết thúc việc xét hỏi Kiểm sát viên trình bày luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn. Luận tội của Kiểm sát viên chỉ căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà, ngoài việc đề xuất việc áp dụng hình phạt chính, KSV phải chú ý đề nghị HĐXX áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo, đề nghị việc xử lý vật chứng và trách nhiệm bồi thường dân sự nếu có.
Nhiệm vụ rất quan trọng của KSV trong giai đoạn này là tranh luận và đối đáp với người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Khi tranh luận Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến có liên quan đến vụ án mà người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã nêu ra. KSV phải căn cứ vào kết quả điều tra được thể hiện trong hồ sơ và kết quả điều tra công khai tại phiên tòa để lập luận, đối đáp trở lại. Khi tranh luận Kiểm sát viên phải bình tĩnh, khách quan và tôn trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng. Trường hợp chủ toạ phiên toà đề nghị Kiểm sát viên đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án, của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác chưa được tranh luận thì Kiểm sát viên thực hiện theo đề nghị của chủ tọa phiên toà. Cần chú ý, nếu nội dung đề nghị của chủ toạ phiên toà chưa được tranh luận thì Kiểm sát viên tiếp tục tranh luận, nếu đã tranh luận một phần thì Kiểm sát viên tranh luận bổ sung cho đầy đủ.
2.4. Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng
Đây là giai đoạn có vai trò quyết định toàn bộ quá trình tranh tụng. Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và kết thúc sau khi tuyên án. Hội đồng xét xử thực hiện hoạt động này một cách độc lập tại phòng nghị án, không có sự tham gia của bất cứ ai. Tại đây các thành viên của Hội đồng xét xử thảo luận về tính hợp pháp, tính liên quan và tính khách quan của các chứng cứ đã được kiểm tra xác minh tại phiên tòa; xem xét các yêu cầu, đề nghị và quan điểm của các bên về vụ án trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật thương mại… Sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử tiến hành biểu quyết theo đa số về từng vấn đề cụ thể của vụ án. Hội đồng xét xử chấp nhận hay không chấp nhận quan điểm, yêu cầu, đề nghị của các bên buộc tội, bên bào chữa và quyết định về các vấn đề cụ thể cần giải quyết trong vụ án như về tội danh, về điều, khoản, điểm của BLHS cần áp dụng cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cần áp dụng với bị cáo; mức hình phạt; mức bồi thường thiệt hại… hoặc HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội. Việc đánh giá chính thức kết quả tranh tụng của các bên về vụ án được HĐXX thể hiện bằng phán quyết ở dạng bản án hoặc quyết định.
Bản án hoặc quyết định của HĐXX là văn bản pháp lý ghi nhận kết quả tranh tụng giữa các bên về vụ án ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Phán quyết này là nhân danh Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam, được Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên đọc công khai kể cả trong những trường hợp xét xử kín. ở giai đoạn này, KSV phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Khi một thành viên của Hội đồng xét xử đọc bản án, Kiểm sát viên phải chú ý ghi lại những nhận định quan trọng và nội dung quyết định của bản án sơ thẩm để làm căn cứ kiểm tra biên bản phiên toà, bản án sơ thẩm và chuẩn bị nội dung kháng nghị, nếu cần thiết;
-Ngay sau khi HĐXX tuyên án, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc Hội đồng xét xử trả tự do cho bị cáo hoặc bắt tạm giam bị cáo theo quy định tại Điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng Hình sự;
.- Sau khi kết thúc phiên toà, Kiểm sát viên phải kiểm tra biên bản phiên toà, nếu phát hiện biên bản phiên toà ghi không đầy đủ hoặc không chính xác thì yêu cầu Hội đồng xét xử ghi những sửa chữa bổ sung vào biên bản phiên toà;
-* Kiểm sát viên phải kiểm tra bản án hoặc quyết định của Toà án nhằm phát hiện những sai sót và vi phạm của Toà án trong việc ra bản án hoặc quyết định, đồng thời phải kiểm sát việc giao bản án, các quyết định của Toà án và việc gửi hồ sơ vụ án có kháng cáo, kháng nghị theo đúng quy định của các Điều 229 và 237 Bộ luật Tố tụng Hình sự.;
- Khi phát hiện bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án có vi phạm pháp luật, Kiểm sát viên phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện kiểm sát cấp mình để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Từ những nội dung đã nêu và phân tích ở trên có thể khẳng định rằng:
1) Các giai đoạn của quá trình tranh tụng có mối liên hệ chặt chẽ và biện chứng không thể tách rời. Mỗi giai đoạn này tuy có sự khác nhau về tính chất, mức độ, nội dung và hình thức nhưng kết quả của giai đoạn trước là tiền đề cho hoạt động của các chủ thể ở giai đoạn tranh tụng tiếp theo.
2) Chỉ có phiên tòa sơ thẩm, thì bản chất của tranh tụng mới được thể hiện đầy đủ, tập trung và rõ nét nhất. Bởi vì, Tòa án cấp sơ thẩm có nhiệm vụ xét xử đối với toàn bộ vụ án nên tại phiên tòa này mới có sự tham gia đầy đủ của tất cả các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và những người tham gia tố tụng khác (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch,…)
3) Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV tham gia phiên tòa với nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX và những người tham gia tố tụng khác. Đây là hai nhiệm vụ có mối liên hệ chặt chẽ và không tách rời nhau. Tại phiên tòa, KSV thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố chính là tạo điều kiện thuận lợi, hiệu quả để kiểm sát việc tuân theo pháp luật và làm tốt việc kiểm sát tuân theo pháp luật tại phiên tòa sẽ đảm bảo cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần giảm thiểu oan sai và không để lọt tội phạm.

3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự
3.1. Sự cần thiết nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự
Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa hình sự nói chung và chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự nói riêng là một đòi hỏi, nhu cầu tất yếu khách quan của công cuộc đổi mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đòi hỏi này xuất phát từ các yếu tố sau đây:
1) Một trong những nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay là tiến hành cải cách tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan Tư pháp. Ngành Kiểm sát nhân dân là một trong những bộ phận giữ vai trò quan trọng trong hệ thống các cơ quan Tư pháp. Trong TTHS, Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp nói chung và trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa nói riêng. Vì vậy, Viện kiểm sát chỉ có thể hoàn thành tốt chức năng này khi đội ngũ kiểm sát viên làm tốt nhiệm vụ tranh tụng của mình tại phiên tòa hình sự.
2) Tình hình tội phạm ở nước ta trong những năm gần đây ngày càng diễn biến phức tạp, thủ đoạn phạm tội cũng ngày càng tinh vi xảo quyệt hơn. Cuộc đấu tranh chống tội phạm đòi hỏi chúng ta một mặt phải xử lý kiên quyết nghiêm minh đối với mọi hành vi phạm tội, nhưng mặt khác, phải bảo đảm tôn trọng và bảo vệ ngày càng có hiệu quả hơn các quyền tự do cơ bản của công dân, không được bỏ lọt tội phạm đồng thời không được làm oan cho người vô tội. Viện kiểm sát là chủ thể thực hiện chức năng công tố là buộc tội bị cáo trong quá trình xét xử vụ án tại phiên tòa. Hoạt động tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và kết quả xét xử vụ án.
3) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đánh dấu một bước ngoặt với sự thay đổi chức năng của Viện kiểm sát Nhân dân, theo đó Viện kiểm sát nhân dân không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội mà chỉ thực hiện chức năng công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động Tư pháp mà phạm vi thực hiện chức năng công tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS;
Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành quy định đầy đủ và cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các kiểm sát viên thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong TTHS nói chung và trong tranh tụng tại các phiên tòa nói riêng.
4) Kiểm sát là một nghề trong đó hoạt động tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa là một nội dung quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp của kiểm sát viên. Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa trước hết phụ thuộc vào kỹ năng nghề nghiệp – kỹ năng tranh tụng của kiểm sát viên. Thực tiễn hoạt động kiểm sát đã chứng minh rằng: kỹ năng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới và những bất cập này cần được khắc phục.
5) Theo quy định của pháp luật, từ ngày 01/7/2009, tất cả các Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ thực hiện việc xét xử các vụ án có khung hình phạt quy định đến 15 năm tù. Như vậy, số lượng án hình sự do Viện kiểm sát cấp huyện thực hành quyền công tố sẽ tăng lên. Trong khi đó đội ngũ kiểm sát viên nói chung và kiểm sát viên chuyên trách kiểm sát điều tra xét xử án hình sự ở Viện kiểm sát cấp huyện chưa được kiện toàn đầy đủ, trình độ lại không đồng đều. Đây là một khó khăn mà ngành kiểm sát phải nỗ lực phấn đấu để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa cũng là một trong những yêu cầu cấp bách trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.
3.2. Một số giải pháp về nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về tranh tụng
Chúng tôi cho rằng việc kết hợp một số yếu tố của hệ thống tố tụng tranh tụng để xây dựng hệ thống tố tụng ở nước ta theo kiểu bán tranh tụng là phù hợp, bởi vì nó đáp ứng được nhu cầu hội nhập quốc tế và cải cách Tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, các quy định trong BLTTHS sẽ được sửa đổi trong thời gian tới có liên quan đến tranh tụng cần được xây dựng theo các hướng sau:
- Tranh tụng phải được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS giữ vai trò chi phối và định hướng cho hoạt động và hành vi tố tụng của tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết các vụ án hình sự phù hợp với chức năng tố tụng của các chủ thể đó theo quy định của pháp luật;
- Quy định đầy đủ các điều kiện bảo đảm cần thiết để các chủ thể thuộc bên buộc tội và bào chữa bình đẳng với nhau trong tranh tụng.
Các quy định cụ thể trong BLTTHS hiện hành cần được sửa đổi, bổ sung như sau:
1) Điều 211 BLTTHS: Về trình tự tranh luận, bị cáo và người bào chữa phải là người phát biểu sau cùng, vì khi trình bày lời bào chữa, bị cáo và người bào chữa phải thể hiện quan điểm của mình không chỉ đối với lời luận tội của kiểm sát viên mà còn đối với cả ý kiến của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền lợi của họ. Vì vậy, cần đổi vị trí giữa khoản 2 và khoản 3 của Điều 211 mới phù hợp với logic tranh luận.
2) Quy định về các điều kiện bảo đảm sự bình đẳng của các bên tranh tụng: Trong TTHS, bên bào chữa và các bên buộc tội chỉ có thể bình đẳng với nhau khi các bên đều được bảo đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện có hiệu quả chức năng của mình theo quy định của pháp luật. Các điều kiện này không chỉ bao gồm bảo đảm về mặt pháp lý (các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật giành cho các chủ thể của mỗi bên ở từng giai đoạn tố tụng cụ thể ) mà còn cả các bảo đảm khác. BLTTHS hiện hành quy định chưa đầy đủ các điều kiện bảo đảm sự bình đẳng của bên buộc tội và bên bào chữa trên thực tế. Điều đó thể hiện ở một số vấn đề sau đây:
a) Điều 56 BLTTHS đã hạn chế khả năng lựa chọn người bào chữa của bị can, bị cáo khi không quy định những thân thích của bị can, bị cáo ( như ông , bà, cha mẹ, anh chị em ruột, ... có trình độ cử nhân luật ) có thể là người bào chữa cho họ. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần mở rộng diện những người có thể là người bào chữa bằng cách bổ sung thêm cụm từ “hoặc người thân thích” vào sau cụm từ “người đại diện hợp pháp” ở điểm b khoản 1 Điều 56 BLTTHS. Sự mở rộng này cũng phù hợp với quy định tại khoản 2 của Điều luật này vì họ không thuộc diện những người không được bào chữa cho bị can, bị cáo.
b) Điều 10 BLTTHS* Theo quy định này, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Tuy nhiên trong thực tế xét xử vẫn còn không ít trường hợp mặc dù các chứng cứ hoặc một số tình tiết của vụ án (vì những lý do nào đó) không làm rõ được ở giai đoạn điều tra và tại phiên tòa cũng không thể làm sáng tỏ được hoặc giữa chứng cứ mâu thuẫn với nhau, nhưng Hội đồng xét xử vẫn dựa vào các chứng cứ và tình tiết đó để kết tội và xử phạt bị cáo. Điều đó đã dẫn đến một số trường hợp xử phạt oan sai người vô tội (ví dụ: vụ án Vườn điều). Để khắc phục những biểu hiện thiếu dân chủ đó, cần bổ sung nội dung sau vào cuối điều luật này: “Không được sử dụng những chứng cứ chưa được làm sáng tỏ hoặc mâu thuẫn với nhau làm căn cứ để kết tội và xử phạt bị cáo”
3.2.2. Kiện toàn biên chế, tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
Kiện toàn biên chế, tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân các cấp, đặc biệt là các Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, tăng cường đội ngũ kiểm sát viên có kinh nghiệm và giỏi về chuyên môn cho các Viện kiểm sát cấp huyện ở vùng sâu, vùng xa: đây là biện pháp quan trọng và cấp bách trong tình hình hiện nay khi đội ngũ kiểm sát viên các cấp ở nước ta, đặc biệt là ở cấp quận, huyện còn thiếu về số lượng, và không đồng đều về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp.
3.2.3. Xây dựng đội ngũ kiểm sát viên có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn tốt và có kỹ năng tranh tụng giỏi
Thực tiễn cho thấy, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ kiểm sát viên các cấp còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan như Trường đào tao, bồi dưỡng cán bộ kiểm sát, Học viện Tư pháp cần phối kết hợp chặt chẽ với nhau để có kế hoạch xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng ngắn hạn cho đội ngũ kiểm sát viên các cấp về kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa hình sự cũng như các kỹ năng đặc thù đối với tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, các vụ án về ma túy, các tội về chức vụ... Đây là một giải pháp cấp bách cần sớm triển khai thực hiện kịp thời nhằm trang bị đầy đủ hơn, chuyên sâu hơn về kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ kiểm sát viên nói chung và kiểm sát viên chuyên trách kiểm sát điều tra- xét xử án hình sự nói riêng, có như vậy mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài trong giai đoạn cách mạng mới.
Mặt khác, phải lựa chọn những người có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng vững vàng, không bị mua chuộc,cám dỗ, vụ lợi cá nhân để bổ sung vào đội ngũ kiểm sát viên các cấp, đồng thời phải xử lý nghiêm minh những KSV thoái hóa biến chất, chuyển những KSV quá yếu kém về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ sang làm công việc khác phù hợp hơn.
3.2.4. Bảo đảm cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động của đội ngũ kiểm sát viên, có chế độ đãi ngộ phù hợp với hoạt động nghề nghiệp đặc thù.

Để hoạt động tranh tụng của kiểm sát viên có chất lượng và hiệu quả, cần bảo đảm đủ cơ sở vật chất cần thiết để kiểm sát viên thực hiện chức năng nhiệm vụ theo quy định của pháp luật: trụ sở, trang thiết bị làm việc, phương tiện kỹ thuật như máy tính cá nhân, các văn bản pháp luật cần thiết... Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật, trong đó có đội ngũ kiểm sát viên, phù hợp với hoạt động nghề nghiệp đặc thù của họ.



  Tìm kiếm
  Hỗ trợ trực tuyến
Đăng ký tư vấn miễn phí

Họ tên
Email
Tiêu đề
File đính kèm
Nội dung
Thăm gò ý kiến
1. Anh/chị có thường xuyên sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư?

2. Khi có nhu cầu về dịch vụ pháp lý anh/chị thường tìm đến luật sư qua thông tin nguồn nào?

3. Cảm nhận của anh/chị về dịch vụ pháp lý của chúng tôi?

Gửi bình chọn 
 
Lượt truy cập
 
CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚ KHÁNH
Địa chỉ: 47 A-31 Đường số 8, Khu đô thị Lê Hồng Phong II,
phường Phước Hải, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

Điện thoại: (+84-258) 652 2525 – 0936 366 397 (LS Nguyên)
Email: nguyenlawyer82@gmail.com